Liễu Tông Nguyên 柳宗元 (773-819) đặt ra truyện ngụ ngôn này để chê chính sách thuế má nặng nề thời đó.
Đoạn tả bọn nha lại nửa đêm tới vơ vét của dân rất linh động, thái độ hung hăng của chúng ngược hẳn với thái độ điềm nhiên của người bắt rắn. Thú vị nhất là câu: "ngó cái vò thì rắn của tôi vẫn còn". (Nguyễn Hiến Lê, Cổ văn Trung Quốc)
捕蛇者說 | Lời người bắt rắn |
[I] 永
州之野產異 蛇:黑質而 白章,觸草 木盡死;以 齧人,無禦 之者。然得 而腊之以 為餌,可以 已大風、攣 踠、瘺癘, 去死肌,殺 三蟲。其始 太醫以王命 聚之,歲賦 其二 。募 有能捕之者, 當其租入。 永之人爭奔 走焉。 [II] 有蔣氏者, 專其利三世 矣。問之, 則曰:「吾 祖死於是, 吾父死於是, 今吾嗣為之 十二年,幾 死者數矣。」 言之貌若甚 戚者。 [III] 余悲之,且 曰:「若毒 之乎?余將 告於 蒞事 者,更若役, 復若賦,則 如何?」 蔣氏大戚, 汪然出涕, 曰:「君將 哀而生之乎? 則吾斯役之 不幸,未若 復吾賦不幸 之甚也。嚮 吾不為斯役, 則久已病矣。 自吾氏三世 居是鄉,積 於今六十歲 矣。而鄉鄰 之生日蹙, 殫其地之出, 竭其廬之入。 號呼而轉徙, 餓渴而頓踣。 觸風雨,犯 寒暑,呼噓 毒癘,往往 而死者,相 藉也。 [IV] 曩與吾祖居 者,今其室 十無一焉。 與吾父居者, 今其室十無 二三焉。與 吾居十二年 者,今其室 十無四五焉。 非死即徙爾, 而吾以捕蛇 獨存。悍吏 之來吾鄉, 叫囂乎東西, 隳突乎南北; 譁然而駭者, 雖雞狗不得 寧焉。 [V] 吾恂恂而起, 視其缶,而 吾蛇尚存, 則弛然而臥。 謹食之,時 而獻焉。退 而甘食其土 之有,以盡 吾齒。蓋一 歲之犯死者 二焉,其餘 則熙熙而樂, 豈若吾鄉鄰 之旦旦有是 哉。今雖死 乎此,比吾 鄉鄰之死則 已後矣,又 安敢毒耶?」 [VI] 余聞而愈悲, 孔子曰:「 苛政猛於虎 也!」吾嘗 疑乎是,今 以蔣氏觀之, 猶信。 嗚 呼!孰知賦 斂之毒,有 甚於是蛇者 乎!故為之 說,以俟夫 觀人風者得 焉。 |
[I] Cánh đồng Vĩnh Châu có sinh ra một thứ rắn lạ, mình đen (1) vằn trắng (2), nó đụng chạm vào cây cỏ nào thì (cây cỏ) đều chết, cắn (3) ai cũng vô phương cứu chữa. Nếu bắt được nó phơi khô (4) làm thuốc thì chữa được (5) các chứng phong nặng (6), chân tay co quắp (7), cổ sưng, ghẻ độc, làm tiêu được thịt thối, giết được trùng tam thi (8). Mới đầu quan thái y (9) theo lệnh vua cho gom bắt loài rắn đó, mỗi năm trưng thu hai lần; chiêu mộ những người có tài bắt rắn, nộp lên thay cho thuế ruộng. Dân Vĩnh Châu tranh nhau đi bắt.
[II] Có người họ Tưởng nọ chuyên về mối lợi đó đã ba đời. Tôi hỏi thì đáp: “Ông tôi chết vì rắn, cha tôi chết vì rắn, nay tôi nối nghiệp được mười hai năm, đã mấy lần suýt chết.” Nói xong, vẻ mặt cực buồn thảm. [III] Tôi ái ngại, hỏi: “Chú (10) oán việc đó lắm ư? Để tôi nói với quan địa phương (11), thay đổi việc phục dịch cho chú, chú sẽ đóng thuế ruộng như trước, chú nghĩ sao?” Họ Tưởng rất bi thảm, nước mắt giàn giụa (12), đáp: “Ông thương mà muốn cứu sống tôi chăng? Nhưng việc này, tuy bất hạnh, mà so với cái bất hạnh phải đóng thuế ruộng trở lại, còn đỡ khổ hơn nhiều. Nếu tôi không làm việc này thì khốn khổ đã lâu rồi. Họ tôi ở làng này đã ba đời, tính tới nay được sáu chục năm, mà cuộc sống của người trong làng mỗi ngày một thêm cùng khốn, ruộng đất sản xuất được bao nhiêu đều hết nhẵn, thu nhập trong nhà đều nộp lên hết, kêu gào mà bỏ đi, đói khát khốn đốn, mắc mưa mắc gió, chịu nóng chịu lạnh, hít thở khí độc, đã bao người chết, thây nằm ngổn ngang. [IV] Những người trước kia cùng sống với ông tôi trong làng, nay mười nhà không còn một; những người cùng sống với cha tôi, nay mười nhà không còn được hai, ba; những người cùng sống với tôi mười hai năm nay, hiện trong mười nhà không còn được bốn, năm; nếu không chết thì cũng phải dời đi nơi khác, tôi nhờ bắt rắn mà riêng còn sống ở đây. Bọn lại hung ác tới làng tôi, hò hét náo loạn ở bốn phía, ồn ào làm cho mọi người kinh hoảng, tới gà chó cũng không được yên. [V] Tôi rón rén đứng dậy, ngó cái vò, thấy rắn của tôi vẫn còn, thế là yên lòng nằm xuống ngủ, cẩn thận nuôi rắn, đợi đúng lúc dâng lên vua, mà rồi được hưởng những món ngon miền này cho đến hết tuổi đời. Vì mỗi năm tôi chỉ phải nguy tánh mạng hai lần thôi, còn thì hớn hở vui vẻ (13) suốt năm, có đâu như những người khác trong làng ngày nào cũng khốn khổ! Bây giờ giá tôi có chết vì bắt rắn thì cũng còn là chết sau những bà con lối xóm, như vậy thì sao dám oán gì nữa?” [VI] Tôi nghe mà càng thương tâm. Khổng Tử nói: “Chính sách hà khắc còn tàn bạo hơn cọp.” (14) Tôi đã từng ngờ lời đó, nay xét qua đời người họ Tưởng này mới tin là đúng. Than ôi, ai biết cho rằng cái độc hại của thuế má nặng nề còn tệ hơn cái độc hại của rắn nữa! Cho nên tôi chép lại lời người bắt rắn này để đợi các nhà khảo sát dân tình phong tục hiểu thấu. (Dịch theo Nguyễn Hiến Lê, Cổ văn Trung Quốc, trang 287) |
Chú thích
(1) mình đen: nguyên văn hắc chất 黑質 thân mình màu đen.
(2) vằn trắng: nguyên văn bạch chương 白章 hoa văn màu trắng.
(3) cắn: nguyên văn niết 齧. Cũng như giảo 咬.
(4) phơi khô: nguyên văn tịch 腊 thịt khô; ở đây dùng làm động từ: đem phơi ở chỗ có gió cho khô.
(5) chữa được: nguyên văn dĩ 已. Cũng như chỉ 止.
(6) chứng phong nặng: nguyên văn đại phong 大風. Cũng như ma phong bệnh 麻瘋病.
(7) chân tay co quắp: nguyên văn luyến uyển 攣踠.
(8) trùng tam thi: nguyên văn tam trùng 三蟲. Tức là tam thi trùng 三尸蟲, đạo gia gọi đầu, ngực và bụng là tam thi, chỗ do đó sinh bệnh. Có thuyết nói "tam trùng" là kí sinh trùng.
(9) thái y: 太醫 chức quan coi về việc thuốc trong cung vua.
(10) chú: nguyên văn nhược 若, nhân vật đại danh từ ngôi thứ hai (mày, ngươi, v.v.)
(11) quan địa phương: nguyên văn lị sự giả 蒞事者, chỉ quan lại đến nhậm việc ở một nơi.
(12) nước mắt giàn giụa: nguyên văn uông nhiên 汪然, nước mắt chảy không ngừng.
(13) hớn hở vui vẻ: nguyên văn hi hi 熙熙 dáng vui hòa.
(14) chính sách hà khắc: Khổng Tử đi qua bên núi Thái Sơn, có một người đàn bà khóc ở mộ rất bi thương. Phu tử tựa vào đòn ngang xe cúi mình xuống để nghe, sai Tử Lộ hỏi bà ta rằng: “Tiếng khóc của bà dường như có nhiều nỗi đau buồn?” (Người đàn bà) bèn trả lời rằng: “Đúng thế. Ngày trước cha chồng tôi chết vì cọp, chồng tôi cũng chết vì cọp, nay con tôi lại chết vì cọp.” Phu tử nói rằng: “Tại sao bà không bỏ đi?” (Người đàn bà) đáp: “Ở đây không có chính sách hà khắc.” Phu tử nói rằng: “Các trò hãy ghi nhớ điều đó. Chính sách hà khắc còn tàn bạo hơn cọp dữ.” (Trần Văn Chánh dịch, Toàn thư tự học chữ Hán – Nhà xuất bản Trẻ)
youtube
Tham khảo
Nguyễn Hiến Lê, Cổ văn Trung Quốc, Xuân Thu xuất bản, USA, Houston.
http://rthk.hk/chiculture/chilit/dy04_1604.htm
https://www.youtube.com/watch?v=cK5mnJd0e3o